Từ cửa Phi Long đi qua cung Nghinh Xuân là đến Đông Cung, điện Nhật Quang của các hoàng tử, Nguyệt Minh của các công chúa. Bát Lang vào thay khăn xô, đồ hiếu rồi cả đám lại đi tới điện Càn Nguyên bằng đường hậu cung, đi qua hai điện Long An, Long Thụy.
Điện Càn Nguyên là chính điện nơi hoàng đế thiết triều. Điện tọa lạc trên núi Nùng, là nơi chính giữa của cấm thành, lối hậu đường từ điện chính là đường duy nhất có thể đi vào hậu cung. Lấy tên điện theo quẻ đầu tiên của Kinh Dịch, hai đường trước sau điện Càn Nguyên đều có thềm rồng đá mười cấp với mỗi thềm bốn con Ma kiệt Thần Long trườn dài chia thềm rồng thành ba lối, lối lớn ở giữa và hai lối ở bên nhỏ hơn. Mặt trước điện thì sau mấy lần thềm đá, thang đá là tới sân đá Long Trì và các hành lang đá các điện Tập Hiền, Giảng Võ, điện Cao Minh ra tận Đoan Môn rồi cửa Đại Hưng. Mặt sau là hậu cung thì nối với hành lang đá có mái che đến các cung Long An Long Thụy, qua cung Thúy Hoa ra tận ngoài cửa Diệu Đức, chung quanh đều có vườn cây, hồ cá, thủy đình bát giác gọi là Ngự Hoa Viên.
Đoàn Bát lang đi đến cửa hậu điện của điện Càn Nguyên, toán Ngự Long quân đứng gác cúi chào rồi viên chỉ huy dẫn đoàn vào điện. Quân Ngự Long toàn quân mặc giáp mây có hộ tâm kính ở hai bên ngực, ngực bên trái khắc hình hoa văn Đồng Cổ, ngực bên phải khắc Bồ đề Long Phụng. Tay cầm giáo dài, tay cầm khiên mây tròn, hông đeo gươm và bao tên, sau lưng đeo cung nỏ, đội nón mây chóp nhọn sơn chàm, áo lót lụa đen, quần vải đi hia. Các vệ Cấm quân đều trang bị như vậy chỉ khác ký hiệu hộ tâm kính bên ngực phải, quân Trừng Hải cửa bắc thì khắc Linh Quang Kim Quy, quân Quảng Thành cửa nam thì có Phụng Hoàng Ca Lăng Tần Già, quân Quảng Vũ cửa phía tây là Bạch Tượng, quân Phủng Nhật cửa Tường Phù phía đông là Thái Long.
Lên thềm rồng qua cửa hậu điện là cả một tấm bình phong cao hơn một trượng choán hết bảy trên chín gian, đều có khắc hình rồng phượng, bồ đề, thần tiên bay lượn nhảy múa vũ khúc Tây Thiên, sau tấm bình phong đó chính là nơi đặt long kỷ để hoàng đế thiết triều, hai gian bên ngoài cùng trái phải chính là lối ra hậu cung.
Đoàn người vòng ra mặt tiền của điện Càn Nguyên thì thấy trong điện cũng đã tập trung khá đông hoàng thân quốc thích. Linh cữu của Vua được đặt dọc theo đường đại điện, trên cỗ xe song long, ngay dưới thềm rồng dẫn lên long kỷ cao chín bậc . Hai bên thái giám, cung nữ, cấm quân đứng hầu dọc theo hàng rồng ngoài cùng của thềm rồng, xếp hàng dài xuống cửa điện.
Hai bên thềm dọc theo l·inh c·ữu đều đặt những chiếc gối lụa vàng kim thêu rồng phượng để thân quyến của vua quỳ hầu mỗi bên tám chiếc. Chiếc gối còn trống đầu tiên bên phải là chỗ của Lập Giáo Hoàng Hậu, các gối tiếp theo đều có các công chúa và các Thái tử phi lần lượt quỳ chầu bao gồm An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa, người ăn mặc theo lối miền ngược là Lĩnh Nam công chúa Lý Bảo Hòa, tiếp đến là các thái tử phi búi tóc hình rẻ quạt, cài trâm ngọc, mặc hoàng lĩnh màu vàng nhạt trong áo cói khăn mang họ Mai, Dương, Đinh, Vương, Nguyễn, đều con nhà danh gia thế phiệt.
Ba gối đầu tiên bên trái đều trống là của Khai Quốc Vương Lý Long Bồ, Đông Chinh Vương Lý Lực, Bát lang Hoàng tử Lý Nhật Quang. Vũ Uy Vương, Huyền Trung Vương quỳ tiếp sau, hai gối trỗng của Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương kế tiếp và gối cuối là của Phò mã Thân Thời Quý.
Dưới cùng gần cửa điện là đám tam công tứ trụ, trụ cột triều đình gồm mỗi bên năm người. Bên trái là đám Thái sư Trần Cảo, Thái phó Trần Văn Tú, Thái bảo Đào Thạc phụ và Thái úy Lý Trưng Hiển. Bên kia là Thiếu sư Trịnh Tú Văn, Thiếu phó Lưu Đàm, Thiếu bảo Đào Xử Trung và Thiếu úy Nguyễn Quang Lợi, các chức này còn gọi là Thái tử tứ trụ, là Thái tử Thái sư, Thái tử Thái phó, Thái tử Thái úy và Thái tử Thái bảo. Hai người cuối đứng trong đại điện là Khu mật sứ Ngô Đinh bên trái và Nội thị hành điện đô tri Phan Đường Liệt bên phải, ngoài sân rồng Long trì quan viên cúi lạy xếp thành mấy hàng dài hai bên.
Mai thái tử phi tay ôm một đứa nhỏ tầm bốn năm tuổi trong lòng. Đứa nhỏ mặt mũi khôi ngô sáng lạn, trán cao thẳng tắp, mắt tỏa hào quang, nhanh nhẹn tinh nghịch, mặc áo hoàng bào lụa vàng có thêu rồng ổ chìm trước ngực, đầu cuốn khăn the hoàng kim bên trong khăn tang, ngoài khoác khăn xô. Đứa nhỏ chính là con trưởng của Đông cung Thái tử với Mai Thái tử phi tên là Lý Nhật Tôn. Đông cung Thái tử chính ra đến Nhật Tôn là đã hạ sinh được ba hoàng tôn, nhưng hai người mất sớm, nên Nhật Tôn vốn là con thứ ba trở thành con trưởng. Từ nhỏ thiên tư thông minh nên Đông cung yêu quý lắm, định bụng khi đăng cơ sẽ phong hoàng tôn làm thái tử. Nhật Tôn lém lỉnh tay cầm khăn lau nước mắt cho mẹ, miệng bi bô :
- Các mẹ đừng khóc, có Nhật Tôn ở đây rồi, cha cũng sắp về với mẹ với con rồi.
Các phi tần thấy Nhật Tôn nhanh nhẹn hoạt bát lại sớm thấu hiểu nhân tâm nên bụng lấy làm an ủi lắm, Mai thái tử phi dang tay ôm chầm lấy con vào lòng khóc nghẹn.
Phía trước Linh Cữu của hoàng đế đặt một hương án, hai bên hai hàng phướn treo cao, trước minh đường hương án là mười tám vị đại sư mặc áo thô màu ghi xám, đang ngồi thiền xếp thành hình chữ vạn. Chính giữ tâm chữ vạn có một vị đại sư khoác áo cà sa hoàng kim ngoài áo ghi, đầu đội khăn ngũ trí huệ dát vàng, cổ đeo tràng hạt, râu bạc trắng dài quá bụng, đang ngồi xếp bằng, một tay bắt ấn tam muội, một tay lần tràng hạt màu nâu, lầm nhẩm đọc kinh.
Phía sau là các sư sãi, đạo sĩ áo nâu áo ghi, áo đen xếp hàng tám người mỗi bên. Bên trái, đứng đầu là thiền sư Huệ sinh. Bên phải một hàng đạo sĩ từ Trấn Vũ Quán, đều mặc đạo bào ngoài đen trong trắng, tóc xõa búi đỉnh, đội mũ liên hoa, cài trâm gỗ. Đứng đầu đám đạo sĩ là Trần Tuệ Long đại sĩ, tuổi ngoài bốn mươi, sắc diện hồng hào, râu tóc đen nhánh, đội mũ Phù Dung cánh sen bằng bạc.
Vị đại sư ngồi chính giữa chữ vạn, pháp danh là Định Hương, là tổ thiền đời thứ sáu của thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái đệ nhị danh gia của Đại Cồ Việt, có tổ đường ở chùa Kiến Sơ, đất Gia Lâm bên kia sông Cái. Hai trăm năm trước, triều đình phương Bắc lại gây pháp nạn, một làn sóng các sư sãi nữa lại chạy đến phương nam. Thiền sư Vô Ngôn Thông, người Quảng Châu cũng theo làn sóng đó sang lánh nạn, an cư và truyền đạo. Ngài gặp thiền sư Cảm Thành chùa Kiến Sơ, vì ngài Phật pháp cao thâm, vi diệu nên được thiền sư tôn làm thày, từ đó mở ra dòng thiền Vô Ngôn Thông, dòng thiền thứ hai của người Việt.
Cùng với Thiền phái Diệt Hỷ, Vô Ngôn Thông trở thành một trong nhị phái danh gia của trời Nam. Dòng thiền này đến đời thứ tư xuất hiện một vị đại đức mà danh tiếng lừng lẫy cả triều đình lẫn các chốn Tùng lâm. Vị đại sư đó mang tên Khuông Việt Ngô Chân Lưu, là hậu duệ năm đời của Ngô Vương Quyền, được phong làm Tăng thống đầu tiên của Đại Cồ Việt. Đến đời thứ năm thì lại có Thiền sư Đa Bảo theo bước Vạn Hạnh, góp công lớn trong việc đưa Thánh thượng lên ngôi nên Vô Ngôn Thông trở thành một trong hai danh phái vai vế nhất đương thời.
Thiền sư Định Hương thuộc thế hệ thứ sáu của dòng thiền này. Sư từ nhỏ tu học cùng thiền sư Đa Bảo, kiên trì tu học suốt hai mươi tư năm, được coi là người kế thừa y bát của thầy, hiện đang giữ tước Tăng thống, tuổi đã ngoài sáu mươi, râu dài bạc phơ nhưng mặt mũi lại rất hồng hào phúc hậu. Hiện tại Định Hương là vị trưởng lão lớn tuổi nhất, đức cao vọng trọng nhất các chốn Tùng lâm Đại Cồ Việt.
Bát lang vái chào các hoàng thúc hoàng tỷ rồi lui về gối của mình. Lý Đạo Thành và vài tùy tùng đứng hầu phía sau. Nhật Tôn bỗng nhảy ra khỏi lòng Mai thái tử phi rồi chạy sang sà vào lòng Bát lang.
- Bát thúc, bát thúc đi học ở Thiên Đức lâu quá, chả ai cùng Nhật Tôn luyện võ cả. Nhật Tôn lém lỉnh phụng phịu.
Hoàng tử mỉm cười ấm áp, vừa xoa đầu Nhật Tôn, vừa đáp:
- Nhật Tôn đã thuần thục bài cũ chưa mà đã đòi luyện nữa.
Tiểu hoàng tôn nũng nịu:
- Nhật Tôn thuộc rồi, Nhật Tôn thuộc rồi mà.
Hoàng tử ôn tồn gật đầu:
- Được rồi, xong lễ thúc sẽ kiểm tra xem, mà Nhật Tôn phải học cả kinh văn nữa, luyện võ là chưa đủ cho một hoàng tử giỏi đâu đấy, có muốn được oai phong như cha không.