Ải Chi Lăng, một thung lũng nhỏ, hẹp và dài, hình bầu dục, là một phần của con đường cái quan dẫn từ Thăng Long đến tận biên giới với phương Bắc. Thung lũng thắt ở hai đầu, hai vách núi hai bên đường cái cao chót vót, xanh ngắt một màu. Phía Tây là vách núi đá vôi Cai Kinh sừng sững, dựng đứng bên dòng sông Thương. Phía Đông là dãy Thái Họa và Bảo Đài chạy dài nối nhau trùng trùng điệp.
Lòng thung lũng đã hẹp, lại mọc lên rải rác những ngọn núi thấp như núi Hàm Quỷ, núi Kỳ Lân, núi Phượng Hoàng,... khiến cho địa thế đã hiểm trở lại càng thêm phần hiểm trở. Ở hai đầu của thung lũng, hai đầu vòng cung núi thắt lại, chỗ thắt phía Bắc dựng ải Quỷ Môn, chỗ thắt phía Nam dựng ải Lũy Thề.
Ải Quỷ Môn Quan là đoạn hẹp nhất của thung lũng, nằm ở phía Bắc, giáp với Ôn Châu. Từ bên triền núi phủ màu xanh rì của những tán cây của dãy Cai Kinh, bỗng mọc ra một ngọn núi thấp, có một khoảng mặt đá trơn tru, nhẵn nhụi màu nâu đỏ rêu phong. Trên mặt đá có hai cái hốc nằm thẳng hàng sâu hoăm hoắm khiến người qua lại hình dung tới hai hốc mắt và sống mũi của một con quỷ khổng lồ đang nhìn xuống đường cái quan. Cũng có lẽ vì thế, mà núi có tên là núi Mặt Quỷ, quan có tên là Quỷ Môn Quan.
Có ba bóng người đứng cạnh nhau ngay trên trốc của mỏm đá Mặt Quỷ, hướng mắt nhìn xuống lòng thung lũng. Một người mặc bộ giáp của Khu Mật sứ, áo choàng bay phất phới, một người mặc giao lĩnh trắng bên ngoài khoác đối khâm màu đen và một người mặc giao lĩnh màu xanh rêu.
Theo hướng nhìn của ba người đó là một khung cảnh vô cùng ngoạn mục trên con đường cái quan trong thung lũng. Trải dài cả con đường nhỏ hẹp là cả một đàn ngựa một vạn con nối nhau đi lên phía Bắc. Nhìn từ trên núi xuống đàn ngựa như những đốm nhỏ nhiều màu sắc khác nhau, dịch chuyển chầm chậm tịnh tiến trên đường.
Đàn ngựa chia thành những đàn nhỏ hơn một trăm con một. Đứng đầu mỗi đàn nhỏ đó là ba con ngựa lớn yên cương màu đỏ, đuôi có lục lạc và hoa vải màu đỏ nảy tung tăng theo từng bước kiệu. Mấy chục con ngựa theo sau đầu ngẩng cao, dán mắt vào hoa vải của ba con ngựa lớn đi đầu, tai nghe theo lục lạc, bước đều tăm tắp, không loạn cũng không la cà gặm cỏ ven đường. Mỗi đàn có một nài ngựa ngồi trên lưng con ngựa ở giữa trong ba con đứng đầu.
Người mặc bộ giáp đứng trên núi chẹp miệng hai tiếng rồi nói:
- Quả thật là một trăm người điều phối một vạn ngựa. Tài điều phối ngựa của Dực Thánh Vương quả là danh bất hư truyền.
Người mặc đối khâm cười đáp:
- Kể từ hôm nay phải gọi tôi là Mã gia nhé, ngài Tả sứ.
Người mặc giáp cũng bật cười, rồi quay sang nhìn cả người mặc giao lĩnh:
- Mã gia, đúng rồi Mã gia. Chúng ta có hai Mã gia ở đây.
Vậy ra người mặc giáp chính là Khu Mật Tả sứ Lý Đạo Kỷ, người mặc đối khâm thì là Dực Thánh Vương còn người mặc giao lĩnh kia không ai khác, chính là Đông Chinh Vương. Ba nhân vật của Khu Mật Viện này đã có mặt để theo dõi quá trình vận chuyển ngựa sang phương Bắc. Lý Đạo Kỷ hỏi:
- Làm thế nào mà Dực Thánh Vương có thể khiến cả đàn ngựa đi đều mà không loạn thế? Tài thật.
Dực Thánh Vương quay sang đáp:
- Kỷ luật, phải kỷ luật thưa Tả sứ. Phải dạy bọn ngựa này nghe theo con ngựa lớn như con nghe theo mẹ, không có những con ngựa lớn kia, bọn ngựa còn lại rất khó dạy. Nhưng có con đầu đàn làm gương là đám kia răm rắp. Tất nhiên phải thao tác nhiều lần bằng tập luyện, như chúng ta duyệt binh vậy. Đám nài ngựa của ta đã quá quen với điều này.
Lý Đạo Kỷ vừa gật đầu vừa chẹp chẹp miệng rồi nói:
- Sợ thật, ngựa mà răm rắp như người, đi đội hình không loạn, không la ca, thậm chí không cần ngoảnh đầu. Năm xưa Đại Lý gặp phải Dực Thánh Vương đúng là gặp ác mộng thật.
Dực Thánh Vương cười đáp:
- Giờ núi bên kia có sập bọn ngựa cũng không động đâu. Trừ khi tiếng sập quá gần để chúng phải phản xạ. Ta phải dùng những anh em còn sót lại của quân Tam phủ để huấn luyện hàng ngày đấy.
Lý Đạo Kỷ nhướn mắt hỏi tiếp:
- Huấn luyện thế nào vậy, Vương gia?
Dực Thánh Vương mỉm cười, cũng không giấu diếm:
- Ta cho đám nài luyện từng bước cho ngựa. Nài ngựa luyện đàn đi thẳng trước, xong sau đó là đến màn nài ngựa vừa đi vừa đập đồ kim khí thật vang, rồi lại lấy cả kiếm hứng ánh nắng để chiếu vào mắt ngựa nhiều lần. Cứ dần dần là luyện được cho chúng sự bình tĩnh như vậy. Giờ họa may trời có sập chúng mới loạn. Rồi còn huấn luyện cho bọn ngựa nghe theo tiếng lục lạc nữa, ngài nhìn xem bước ngựa rất nhịp nhàng theo tiếng lục lạc kìa. Mà ngựa phải như vậy mới ra mặt trận được chứ, phải không Tả sứ.
Lý Đạo Kỷ khe khẽ gật đầu:
- Khuyển mã thần vương đúng là Khuyển mã thần vương. Giờ ta đã hiểu sao quân Thánh Dực lại tinh nhuệ như vậy.
Dực Thánh Vương lắc đầu thở dài đáp:
- Thế mà ta đã đốt hết gần hết đám quân đấy trong một phút sai lầm.
Lý Đạo Kỷ vòng tay qua vỗ nhẹ vào lưng Dực Thánh Vương an ủi:
- Thôi chuyện xảy ra thì đã xảy ra rồi. Vương cũng đừng dằn vặt, tự trách mình quá. Đây là cơ hội để ngài đoái công chuộc tội đây.
Dực Thánh Vương nhìn sang khẽ gật đầu. Lý Đạo Kỷ lại hướng mắt nhìn xuống thung lũng và nói sang chuyện khác:
- Trời cho chúng ta chốn quan hà này thật là hiểm yếu. Đúng là "thập nhân khứ, nhất nhân hoàn" hai vị nhỉ?
Dực Thành Vương khẽ gật đầu, mắt cũng hướng xuống dưới đường cái quan và đáp:
- Đúng là Quan hà bách nhị. Năm trăm quân chặn Quỷ Môn, năm trăm quân chặn Lũy Thề. Năm trăm quân chia nhau trên vách núi, cộng thêm năm thớt voi nữa thì cái thung lũng này chẳng khác nào cối xay thịt cả. Hầu Nhân Bảo chắc biết rõ điều này đấy Tả sứ ạ.
Lý Đạo Kỷ mỉm cười gật đầu đáp:
- Chắc phải đến trước lúc úp mặt xuống sông Thương mà c·hết thì Hầu Nhân Bảo mới hiểu Giao Châu Sách của mình nhảm nhí đến mức nào, hai vị nhỉ?
Hai vị vương đều gật đầu tán thành, Dực Thánh Vương lại nói:
- Phương Bắc chưa bao giờ từ bỏ ý định tái lập kiếp ngàn năm bắc thuộc cho người Việt mình, trước đây, bây giờ và có lẽ sau này cũng vậy.
Lý Đạo Kỷ đáp:
- Nhưng dù có là lúc nào thì chắc chắn Quỷ Môn Quan vẫn sẽ là nơi tử địa của người Hán. Vẫn sẽ thập nhân khứ, nhất nhân hoàn, non sông trời đã chia rồi.
Dực Thánh Vương lại nói:
- Thực ra theo ta thấy, với binh lực của Đại Cồ Việt, so với nhà Tống thì cái việc trước đánh Phiên Ngung, sau vào Mân Việt mà Đại Hành Hoàng đế đã nói để Lý Nhược Chuyết gửi lời cho vua Tống cũng không phải là quá lời đâu, việc đó là nằm trong tầm tay.
Lý Đạo Kỷ gật đầu đáp:
- Quả đúng như vậy, thậm chí chúng ta còn có thể đánh chớp nhoáng khiến nhà Tống không thể kịp điều động nhân lực kịp thời. Nhà Tống giờ phân bổ lực lượng rộng khắp vùng biên giới phía Tây và Bắc, chúng ta mà làm tới tất phải chọn một trong ba, đôi khi không khéo là mất cả ba cũng nên. Thế nhưng...
Lý Đạo Kỷ dừng lại một lúc, nhìn lần lượt vào mắt hai vị vương đang vừa mới hướng vào mình và nói:
- Đánh có thể đánh nhanh, nhưng chiếm có thể cũng không được lâu đâu hai vị ạ, chưa kể muốn giữ thì tổn thất cũng sẽ là vô cùng lớn.
Hai vị vương vẫn hướng mắt lắng nghe, Lý Đạo Kỷ nói:
- Dù là nhà Tống có thể kháng cự lại Liêu Hạ, hay thất bại, triều đình phương Bắc cũng chắn chắn sẽ có kế hoạch giành lại những vùng đất đó cho bằng được, rồi lại chinh chiến liên miên, không thực sự có lợi cho chúng ta đâu hai vương ạ. Mà Mân Việt hay Phiên Ngung, Quảng Châu vốn dĩ không phải là đất hiểm yếu, cũng không phải là nơi dễ phòng thủ. Chỉ có lui về đây chúng ta mới nắm phần thắng trong tay một cách áp đảo dù có phải lấy ít địch nhiều.
Hai vương nhìn thẳng vào mắt Lý Đạo Kỷ rồi gật đầu. Lý Đạo Kỷ nói tiếp:
- Nói chung là muốn đánh lên, hay muốn phòng thủ thì việc nắm bắt thông tin từ phương Bắc là vô cùng quan trọng. Và đó là việc của Khu Mật Viện, là việc của các vị, song song cùng công việc thương mại.
Hai vương gật đầu, Đông Chinh Vương nói:
- Vậy là khi chúng ta qua biên giới, sẽ trao đổi cùng Khu Mật Viện Đại Tống ở các trạm dọc đường đi sứ phải không Tả sứ.