Dực Thánh Vương nắm lấy cây đao, Đông Chinh Vương cũng tuốt gươm ra khỏi vỏ, cả hai cùng lúc đồng loạt lao tới phía Huệ Sinh. Người chưa tới nơi đã thấy đao ý và kiếm khí tỏa ra lạnh ngắt. Thiền sư Huệ Sinh vẫn giữ nụ cười mỉm thường trực trên môi, hai chân dang ra, chân phải đặt lui lại một chút, đứng tấn rồi vận khí. Đao kiếm vừa tới nơi, hai vị vương gia ra chiêu liên tiếp, chiêu nối tiếp chiêu, ánh đao ánh kiếm như phủ kín lấy cơ thể gày gò của Huệ Sinh.
Nhưng đáng kinh ngạc ở chỗ kiếm khí đao ý vây quanh người như vậy nhưng thiền sư chỉ di chuyển bộ vị bên này một chút, bên kia một chút mà không có một đường kiếm đường đao nào phạm vào người. Thân pháp thiền sư nhẹ nhàng, trông như không tốn chút sức lực nào nhưng rất nhanh và vừa đủ để thoát ra vòng đao kiếm. Người nhìn bên ngoài chỉ thấy như thiền sư phân thân thành rất nhiều ảo ảnh, đường đao đường kiếm như chém được vào người nhưng hóa ra lại không trúng. Bộ pháp này là một trong những tuyệt kỹ trấn phái của phái Diệt Hỷ, gọi là Liên Hoa Bộ, được thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi trực ngộ từ khi ông sáng lập môn phái ở nước Nam, sau này lưu truyền trong nội bộ môn phái.
Hai vị vương gia còn chưa hết kinh ngạc thì đã thấy Huệ Sinh nhích vài bước đã áp sát đến vị trí của hai người. Chỉ kịp thấy vị thiền sư nhẹ đưa tay lên phất nhẹ vào bên vai đang cầm v·ũ k·hí của người này rồi lại đảo chân phất tay nhẹ lên vai người kia. Cả hai đều cảm thấy cánh tay tê rần rần, bất giác không còn nắm được v·ũ k·hí nữa, kiếm và đao ngay lập tức rơi xuống sàn kêu leng keng. Rồi thiền sư lại đảo bộ vị, tiến sát rồi phất nhẹ cái cái nữa vào đùi của hai vị vương gia, hai người lại thấy chân trụ tê không đứng vững được nữa nên khụy chân xuống, phải dùng tay kia chống xuống đất để khỏi ngã lăn ra sàn. Thiền sư Huệ Sinh sử chiêu xong liền lùi lại hai bước, nhắm mắt vận công điều tức rồi thở nhẹ và về trạng thái bình thường.
Cả hai bại tướng giờ đều phủ phục trên sàn, hai tay rơi v·ũ k·hí vẫn đang run lên bần bật. Dực Thánh Vương buột miệng than:
- Liên Hoa Bộ và Diệt Duyên Quyền quả là danh bất hư truyền, ta thấy đại sư mới chỉ dùng tới vài thành công lực mà uy lực đã kinh hồn. Chúng ta đúng là ếch ngồi đáy giếng, chưa gặp quan tài chưa đổ lệ.
Huệ Sinh vẫn nở một nụ cười đôn hậu đáp:
- Mô Phật. Cũng phải thừa nhận thứ nhất là hai vị cũng đã thấm mệt sau cuộc đại chiến. Thứ hai kiếm pháp, đao pháp của hai vị, thậm chí Uy Linh Thương của Tiên đế cũng đều bắt nguồn từ võ công của phái Diệt Hỷ mà ra nên ít nhiều bị khắc chế.
Dực Thánh Vương lúc này gục đầu xuống than vãn:
- Nếu sớm được thiền sư dạy dỗ, có lẽ chúng ta cũng chẳng ngông cuồng gây nên cái tội đại nghịch bất đạo này, thằng Phó và đám binh tướng cũng không phải c·hết oan uổng, thật đáng tiếc.
Huệ Sinh đáp:
- Mọi chuyện biến chuyển đều phải dựa vào thời, chuyện sinh tử thì vốn do nghiệp. Khi các ngài công lao còn ngút trời, sĩ khí còn sừng sững thì bảo nghe theo lão già trọc đầu này sao được. Nhưng kiêu binh tất bại, chiến thắng quá nhiều cũng trở thành con dao hai lưỡi, thành nghiệp chướng che mắt để dẫn các vị vương gia đi từ hết sai lầm này đến sai lầm khác. Lại còn bắc phạt thống nhất vạn dân, suy nghĩ này cũng là sai lầm lắm thay.
Dực Thánh Vương nheo mắt hỏi lại:
- Phương nam ngàn năm bị quân Trung Châu phương bắc dày xéo, nếu đủ thực lực thì bắc phạt có gì sai chứ, điều này thì ta vẫn chưa rõ?
Huệ Sinh trả lời:
- Bắc phạt, như các vương vừa nói, thứ nhất phải nói đến thực lực, phải là một nguồn lực khổng lồ từ quân trang, lương thực đến nhân sự. Thứ hai cứ cho là bắc phạt thành công đi thì sao chứ, các vương đã bao giờ nghĩ sẽ đối phó thế nào với Đại Liêu, Tây Hạ, Thổ Phồn chưa. Liệu đám quân dân của hai quốc gia vừa mới trải qua đại chiến, đầu rơi máu chảy, suy giảm nội lực sẽ chống đỡ thế nào với vó ngựa thảo nguyên từ phương bắc xuống đây. Nhất là người Việt ta khi rời xa sông nước liệu có đứng vững được không? Đấy là ta còn chưa kể những cuộc khởi nghĩa của người Hán để khôi phục lại giang sơn đấy, các vị có nghĩ tới điều đó chưa?
Lúc này cả hai vị Vương gia như nghe thấy sấm nổ bên tai, đều quỳ nốt chân kia, cúi đầu chắp tay trước vị thiền sư mảnh khảnh, Dực Thánh Vương nói:
- Bọn mạt tướng đúng là có mắt mà không trông thấy trời xanh, nghiệp chướng đã quá nặng nề rồi, còn đâu mặt mũi để thấy long nhan và triều đình, chẳng bằng lấy c·ái c·hết để tạ tội.
Huệ Sinh lắc đầu đáp lời ngay lập tức:
- Không. Cái c·hết của hai vị không thể nào tạ tội được đâu, mà còn gây tội nặng hơn. Đông cung đã cho lão tăng đi mời hai vị về tất là có chỗ dùng, giờ là lúc các ngài lấy công chuộc tội mà các ngài lại đòi c·hết thì hóa ra trốn tránh việc tạ lỗi hay sao. Thôi, chẳng bằng hãy theo ta về cung, mọi chuyện đâu còn có đó.
Hai vương đồng thanh lên tiếng:
- Hai kẻ hèn mọn giờ đây biết làm gì để có thể lấy công chuộc tội đây, bản thân cũng tự thấy hổ thẹn?
Huệ sinh trả lời:
- Thứ nhất, việc đầu tiên các ngài phải về là để ngăn cuộc chiến giữa triều đình và quân Trường Yên phủ của Khai Quốc Vương. Đấy là trọng trách của các ngài, việc các ngài gây ra không lẽ lại để quân dân cả nước phải gánh, máu đổ đã quá đủ rồi. Thứ hai, Khu mật viện cũng đã sắp xếp cho các ngài một vai trò mới trong các đối sách với phương bắc, các ngài cũng nên hoàn thành việc đó để lấy công đức bù lại sai lầm.
Hai vương ngước lên ngơ ngác hỏi lại:
- Đối sách với phương bắc sao?
Huệ Sinh trả lời bằng một câu hỏi:
- Đúng. Ngài nghĩ thế nào nếu chúng ta chuyển Đại Tống thành phên dậu, biến Trung Nguyên thành nơi ngăn chặn tham vọng nam tiến của vó ngựa thảo nguyên?
Cả hai vị vương gia ngỡ ngàng khi nghe Huệ Sinh nói, nhìn nhau rồi lập tức cúi đầu đồng thanh:
- Nếu Thánh thượng và triều đình đã cho cơ hội để lấy công chuộc tội, hai kẻ tội đồ này dẫu gan óc lầy đất, da ngựa bọc thây cũng quyết không từ nan.
Vẫn nụ cười trên môi, gật đầu, thiên sư Huệ Sinh nói:
- Vậy việc đầu tiên, mời hai vị về trước cửa khuyết nhận lỗi với tân vương. Sau đó hai ngài cứ hồi phủ, Khu mật viện sẽ sớm mời hai ngài tới để bàn việc lớn. Việc của ta đã xong, ta cũng xin phép hai vương gia để lui về chùa tĩnh tâm niệm phật và làm lễ cầu siêu. Rất mong hai vương sớm có thể lấy công chuộc tội. Lão tăng xin được cáo từ.
Nói xong, vị thiền sư lập tức quay lưng, chầm chậm xuống thang ra cửa cầm ô đội nón rồi dần biến mất trong màn mưa, để lại hai vị vương gia vẫn đang quỳ mọp dưới sàn Nhất Dạ Vương Lâu.
Thiền sư vừa đi khỏi, thì hai vương bỗng nghe thấy tiếng gõ khe khẽ vào cửa phòng. Hai người ngẩng đầu lên thì thấy một thiếu nữ độ hơn đôi mươi, mặt hoa da phấn muôn phần xinh đẹp đã đứng ở cửa. Nàng tết tóc quấn quanh đầu, mặc trên người một bộ xiêm y màu đỏ thắm, áo dài chấm xuống đất, trên người trang sức bằng vàng lấp lánh. Hướng ánh mắt phượng long lanh nhìn thẳng vào phòng nàng cất giọng nói, thanh âm cũng vô cùng êm dịu:
- Vậy là hai vương đã lại chuẩn bị hồi triều làm việc đại nghĩa đó chăng?
Hai vị vương khẽ gật đầu, Dực Thánh Vương đáp lời:
- Bọn bản vương chắc đã gây nên nghiệp chướng quá nặng rồi, giờ phải lấy công đức để chuộc tội thôi, mọi việc ở Vương Lâu này đành nhờ cô Đào đảm đương vậy, phen này làm việc còn chẳng biết lành dữ thế nào nữa kia. Thôi miễn là bù đắp được nghiệp quả.
Vị nữ nhân cười khúc khích:
- Hai vương cứ làm sao cho tâm cảm thấy thoải mái nhất thôi, việc ở Vương Lâu cứ để cho ta. À mà trước giờ việc ở Vương Lâu vẫn do ta cai quản, các ngài ngoài uống rượu nghe hát có phải nhúng tay vào việc gì đâu.
Đông Chinh Vương lúc này lên tiếng:
- Cô Đào cứ yên tâm, chúng ta đi làm việc triều chính nhưng vẫn sẽ đứng ra bảo đảm sự an bình cho Vương Lâu. Rảnh rỗi vẫn sẽ ghé qua, rồi còn bao nhiêu anh em binh tướng cần giải khuây sau những đêm trường chinh chiến nữa chứ, người ta vẫn biết những ai đứng đằng sau cô mà.
Cô Đào vẫn khúc khích trả lời:
- Vâng, được sự bảo đảm của các vương, Vương Lâu này ai dám động tới, việc triều chính thì ta vốn chẳng quan tâm, chỉ mong hai vị cố gắng bảo trọng, hoàn thành công vụ, Vương Lâu cứ để ta lo.
Hai vương lúc này đứng dậy, thu dọn đồ đạc để chuẩn bị rời đi. Ra đến cửa, khi đứng chạm mặt cô Đào, Dực Thánh Vương bỗng nhiên khẽ cất lời:
- Đào Thái bảo mỗi lần hồi kinh, đều dành thời gian để tới mong gặp cô, cô nhất quyết không cho Thái bảo được dịp giãi bày sao?
Lúc này, nụ cười trên chiếc miệng thắm xinh tươi của cô Đào chợt tắt, mặt nàng toát lên vẻ lạnh lùng rồi nói:
- Ta kết thân các vương là vì nghĩ các vương là võ tướng, tánh tình hào sảng, không câu nệ chuyện ta không muốn bàn. Xin Dực Thánh Vương đừng nói về những việc không liên quan đến công việc của Vương Lâu đó nữa, không là ta sẽ suy nghĩ lại về việc ở lại đây đó.
Dực Thánh Vương nghe tới đó khẽ gật đầu, rồi đặt tay lên vai cô Đào:
- Thôi được rồi, việc của cô Đào để cô Đào tự xử, ta không lo việc không liên quan nữa, không có cô Đào thì làm gì có ai muốn đến cái Vương Lâu này nghe hát cơ chứ. Cô cứ làm tốt công việc quản lý vậy. Thôi chúng ta đi đây, xong việc mới lại về nghe hát.
Nói rồi cả hai vị vương gia sánh vai nhau bước xuống sảnh, rời khỏi Nhất Dạ Vương Lâu. Còn cô Đào thì vẫn đứng yên ở cánh cửa, cũng chẳng thèm quay mặt ra như đang suy nghĩ điều gì. Chẳng mấy chốc bóng hai vị qua cửa hòa vào màn mưa biến mất.