Khu Mật Viện

Chương 2: Q1. Chapter 1.1. Bát lang hoàng tử



Q1. Chapter 1.1. Bát lang hoàng tử

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh

Quốc tộ

Đỗ Pháp Thuận

Tổ thiền đời thứ mười thiền phái Diệt Hỉ

Trước đó vài canh giờ...



Cửa Hà Khẩu

Phía đông thành Thăng Long.

- Hạ buồm

Ngự thuyền hai mươi tư tay chèo từ từ rẽ sóng chậm lại xuôi dòng trên sông Nhị Hà tiến về bến phía đông kinh đô Thăng Long. Mũi dần hướng chéo về hữu ngạn sông chỗ cửa Hà Khẩu, ba cánh buồm lớn theo hiệu lệnh của trưởng hiệu, trưởng kỳ được hạ xuống. Cả con thuyền chầm chậm trôi hướng vào cửa thủy môn, đoàn thuyền tùy tùng với năm chiếc thuyền đi sau cũng rẽ vào cập các bến phía đông kinh thành từ Đông Bộ Đầu Hòe Nhai xuống Phúc Lâm Hàng Đậu.

Mười lăm cửa ô và sáu cửa cống của thành Thăng Long thì có đến mười cửa ô và hai cửa cống là đặt ở bến phía đông vì đó là bến chính với dòng Nhị Hà, hay sông Cái là con đường thủy lớn nhất qua kinh đô, cộng thêm cả cả một hệ thống sông ngòi, đầm hồ còn ăn vào sâu trong kinh thành qua các cửa cống đến tận mặt phía tây của hoàng thành để tạo thành một mạng lưới vừa giao thông thuyền bè, vừa canh nông thủy lợi thuận tiện.

Các cửa ô của Thăng Long và các lâu vọng địch trên thành đều có lính canh phòng cẩn mật luân phiên đêm ngày. Mười hai bến ở phía đông thành tạo thành một bến thuyền liên hoàn hữu ngạn Nhị Hà bán buôn đông đúc, trên bến dưới thuyền với tàu bè, hàng quán đậu san sát dọc bờ sông vào đến sát tường thành. Bình thường tàu thuyền tới Thăng Long sẽ cập bến tại một trong mười bến tương ứng với mười của ô đông thành rồi vào cửa làm thủ tục giấy tờ và nhập thành bằng đường bộ, chỉ có những thuyền có chiếu thông quan từ trước mới được đưa cả thuyền vào cửa thành qua cửa cống để vận chuyển hàng hóa cho hoàng thành. Nhưng hôm nay không phải là một ngày bình thường và con thuyền đó cũng không phải là con thuyền bình thường.

Năm chiếc thuyền hậu đều đã cập các bến để nhập thành bằng đường bộ, chiếc thuyền ngự lớn thì đánh lái chĩa thẳng mũi thuyền vào cửa Hà Khẩu và neo lại. Con thuyền ngự sơn son th·iếp vàng bọc đồng ở phần mũi, bám theo thành thuyền xuống tận đuôi thuyền. Trên mũi thuyền hai bên đều khắc hình Ma Kiệt Thần Long uốn lượn, vươn đầu dọc theo đường cong của mũi thuyền hướng lên trên. Chính giữa mũi thuyền có khắc hoa sen tám cánh dát vàng óng ánh.

Người Nam vốn thạo nghề đóng thuyền đi biển và từ xa xưa, có hai việc rất có ý nghĩa đối với họ từ khi đó là xăm mực lên mình và sơn khắc lên thuyền. Họ tin những loài dị thú cũng như những kẻ bất lương trên mặt nước nhìn thấy những hình thù kỳ dị đó sẽ e sợ và sẽ tránh được chuyện không hay. Và đặc biệt họ tin nếu ai đó lỡ hy sinh trong bể rộng khi bão bùng trôi dạt hay ngã xuống xa trường nơi gió cát, những phần còn lại của thân thể cũng như tài sản của mình, những di vật của mình có thể được nhận biết và gửi lại quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Sau dần những hình tượng được trang trí lên thân tàu trở thành một loại phù hiệu riêng để báo hiệu chủ tàu là ai, tàu của gia tộc nào, của viện, của phủ nào. Và ngự thuyền có hình tượng Ma Kiệt Thần Long thì chủ tàu không ai khác, chính là hoàng gia Đại Cồ Việt.



Trên mũi thuyền cắm ba lá cờ hiệu, một lá cờ vuông có đuôi hai màu đen trắng là cờ tang, một lá cờ vàng hình tam giác có thêu Ma Kiệt Thần Long với một lá cờ ngũ sắc ở giữa là sắc hoàng kim có chữ Lý được thêu màu đen. Ở thềm mũi thuyền gần ba lá cờ hiệu có bóng hai người thiếu niên đứng cạnh nhau ngước nhìn lên thành. Người đứng bên trái tầm tuổi đôi mươi, mặt đẹp như tạc tượng, mắt sáng như sao sa, mũi cao trán rộng, dáng điệu tĩnh tại, khoan thai. Thiếu niên khoác áo choàng dài màu xám bên ngoài, áo lụa viên lĩnh màu hoàng kim bên trong có thêu chìm Ma Kiệt Thần Long xếp thành hình chữ thọ, trên đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, búi truy kế cài trâm bằng vàng, trên khăn xếp cài một cái bút, chân đi hài đen mũi thêu hoa sen, một tay chắp sau lưng, một tay kia cầm quạt phe phẩy phong thái rất ung dung nhưng tề chỉnh. Người thiếu niên còn lại cũng chạc mười bốn mười lăm, mặt mũi khôi ngô tuấn tú, mắt phụng mày ngài, buộc dải băng nâu quanh đầu và búi tóc, mặc giao lĩnh ngắn màu tía, quần nâu thô, cách ăn vận gọn gàng bó cổ tay theo lối con nhà võ.

- Bẩm hoàng tử, đã tới Hà Khẩu, thuyền chuẩn bị nhập thành.

Chàng trai áo tía chắp tay cúi đầu về phía người kia nói. Người áo choàng xám nhẹ gật đầu đáp:

- Mới giờ Mùi mà trời đất đã đen kịt như đêm thế này. Đạo Thành, chú báo đoàn mau chóng chuẩn bị sẵn khi nhập th·ành h·ạ bến là ta xuống luôn cho kịp giờ nhé.

Thiếu niên áo nâu trả lời:

- Tuân mệnh.

Người áo vàng lại nói:

- Chú xuống thuyền mời thày lên luôn.



- Rõ. Thưa hoàng tử.

Người thiếu niên tên Thành cúi chào rồi bước xuống, đi dọc mạn thuyền với hai bên lính hầu tả hữu, thì thầm gì đó rồi tiến thẳng xuống khoang thuyền phía sau.

Trưởng kỳ vẫy cờ, trưởng hiệu đến bên loa đồng hô lớn: "Thuyền Bát Lang Hoàng tử nhập thành". Lính canh trên lâu thành vẫy cờ xanh, một lúc sau, cửa cống được chầm chậm mở ra.

Con thuyền lớn nhổ neo dần dần tiến qua Hà Khẩu vào sông Tô Lịch. Thuyền của hoàng gia thường có khắc hình Ma Kiệt Thần Long trên mạn thuyền làm hiệu. Ma Kiệt Thần Long trong kinh điển nhà phật là Vua của loài thủy tộc, là thú nuôi của bồ tát và là vật cưỡi của thần biển nên được chọn làm biểu tượng của hoàng gia. Loài thần long của nhà Lý có vòi có ngà, cả phần đầu tạo dáng như một chiếc lá bồ đề, thân uốn mười hai khúc, bờm râu uốn lượn theo mây, mũi miệng uốn lượn theo sóng, miệng rộng ngậm ngọc, chân dài đạp mây. Những tài vật của hoàng gia thường được khắc thêm phù hiệu Thần Long để phân biệt, các tài vật của hoàng thân quốc thích thì dùng tượng rồng ba ngón chân, còn riêng Hoàng đế thì rồng phải có năm ngón.

Thuyền qua cửa rồi chầm chậm trôi trên con sông Tô, hai bên bờ sông thuyền ghe đậu san sát. Người người đội nón lá, nhấp nhô vận chuyển hàng hóa lên đôi bờ. Những người dân trên bờ dưới búa thấy thiếu niên áo choàng xám đứng trên thuyền đều lặng lẽ cởi nón, cúi chào gật đầu một cái, thiếu niên cũng chắp tay đáp lễ mọi người. Trên bến dưới thuyền ai ai cũng tất bật với công việc của họ nhưng không ai quên việc hành lễ. Tuy nhiên, hôm nay có một điều khác lạ so với ngày thường, mọi người đều mặc áo áo nâu, áo đen, áo ghi và tối màu, là màu sắc của áo cửa Thiền, không mặc đồ sặc sỡ, cũng ko cười nói rôm rả. Tất cả họ, trên mặt đều bộc lộ vẻ tiếc thương vì hôm nay là đại tang của đương kim Thánh thượng, chính là cha của thiếu niên áo choàng xám.

Dưới triều đại của nhà vua, ngài đốt giếng lưới, bãi ngục tụng, ân xá miễn thuế, xây dựng chùa quán, quốc thái dân an. Các Hoàng tử, con nhà quan tướng đều được dạy võ thuật từ nhỏ, và được sống hòa lẫn với thị dân kinh thành. Tới cả đông cung Long Đức của thái tử cũng được xây ngay sát khu dân cư phía đông và có chuông đồng đặt ở cổng để bá tánh ai có oan ức thì lên đánh chuông kêu cầu. Những hoàng tử hay thậm chí là nhà vua cũng thường tham gia vào những buổi Tùng lâm nghị luận, những lễ hội đấu vật, đấu võ, hội thao, đua thuyền công khai nên dân trong thành ai cũng biết mặt. Khi nhà vua lâm chung, bá tánh cũng vì ân đức của ngài mà dành sự chia sẻ với hoàng gia cũng như luyến tiếc một thời đại thái bình thịnh trị. Thêm nữa, họ cũng không giấu nổi nỗi băn khoăn liệu triều đại mới sẽ thay đổi ra sao, những ngày tháng tiếp theo sẽ thế nào.

Người thiếu niên đứng trên mũi thuyền mặc hoàng bào khoác áo choàng xám chính là hoàng tử thứ tám của đương kim Thánh thượng tên là Lý Nhật Quang, hiệu là Bát lang hoàng tử. Ngài tuy trẻ tuổi mà từ lâu đã nổi tiếng thông minh, văn võ kiêm toàn. Người ta đồn hoàng tử tám tuổi biết làm thơ, mười tuổi thông kinh sử lại kiêm tài y dược, thông thuộc y lý. Từ nhỏ, hoàng tử đã theo học tam giáo cửu lưu cùng võ thuật khí tông nơi thiền sư Huệ Sinh của thiền phái Diệt Hỉ, tông phái lớn mạnh nhất Đại Cồ Việt đương thời. Trước đó một ngày, khi đang tu học tại phủ Thiên Đức, trung tâm học thuật lớn nhất Đại Cồ Việt, hoàng tử cùng các vương thân, công tử nghe tin Thánh thượng băng hà nên tức tốc hồi kinh. Thiếu niên áo tía hầu cận bên cạnh là thân tín vệ binh hoàng tử, tên Lý Đạo Thành, cũng là một vương tử, con của Huyền Trung Vương ở phủ Thiên Đức, quê gốc của hoàng gia.

Thuyền ngự vừa cập bến Bạch Mã, đám gia nhân liền buộc dây tạm lên cột và bắc ván để mọi người lên bờ, cũng vừa lúc thày dạy của hoàng tử cùng thị vệ Đạo Thành cùng lên mạn. Hoàng tử dừng bên cầu thuyền mời thiền sư đi lên trước, đoàn người nối nhau lên cầu bến tả ngạn sông Tô. Thiền sư Huệ Sinh đầu cạo trọc, vóc người tầm thước, mảnh khảnh trong bộ áo sãi màu nâu sẫm, đi đôi hài vải. Đôi mắt thầy sáng quắc trên gương mặt gầy guộc, chòm dâu muối tiêu dài quá cổ, đôi tai to vành dài chấm vai, cổ đeo tràng hạt gỗ trầm nâu sẫm dài quá bụng. Thầy là tổ thiền thế hệ thứ mười ba của thiền phái Diệt Hỉ, thiền phái có lịch sử gần năm trăm năm, được sáng lập tại Pháp Vân tự phủ Thiên Đức bởi Đại sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi người gốc Thiên Trúc, pháp danh hán tự là Diệt Hỉ.

Nếu Bồ Đề Đạt Ma được coi là tổ thiền của thiền tông phương Bắc, Thiếu Lâm tự là gốc gác của võ công Trung Nguyên, thì Pháp Vân tự của phái Diệt Hỉ cũng gần như được coi là gốc gác của thiền võ phương Nam. Nói là gần như vì Phật pháp và thiền học đã thâm nhập nước Nam từ rất sớm. Phật pháp thì tương truyền xuất hiện từ thời của các vua Hùng theo bước chân đoàn truyền giáo của vua A Dục xứ Thiên Trúc. Còn tổ thiền đầu tiên được biết đến là đại sư Khương Tăng Hội, sinh ra tại Giao Chỉ thời thái thú Sĩ Nh·iếp, tương đương với thời Đông Hán Tam Quốc phương bắc cách đây tám trăm năm, có cha là thương gia người gốc Khương Cư và mẹ là người Việt. Sư tu học, dịch kinh sách tại Luy Lâu, tức phủ Thiên Đức bây giờ, sáng lập nên thiền phái Nam Hội, giảng dạy kinh Phật, võ thuật khí tông, rồi truyền tâm ấn và sang truyền giáo ở Trung Nguyên, viên tịch ở phương bắc. Các thiền sư thế hệ sau của phái Nam Hội lập nên Tây Thiên Tam Thiền Tự ở vùng Tam Đái để nối tiếp tâm ấn của thày.

Những năm tháng đó, đạo Phật chưa có vị thế ở các triều đại phương bắc bằng đạo Lão, đạo Nho, tu học phải chịu nhiều tai kiếp, cấm đoán bể dâu. Sau đấy còn tàn bạo hơn cả là những cuộc diệt Phật. Những vị đại sư đầu tiên của Phật giáo Trung Nguyên cũng từng bị lùng diệt khắp nơi nên việc tu tập thường diễn ra kín đáo, chùa chiền bắc phái thường dựng trên núi cao, vừa thể hiện tư tưởng xuất thế, vừa tránh triều đình suy diễn là tụ tập tham vọng chính trị để lấy cớ phát khởi can qua, sư sãi khi gặp biến cố cũng còn phải chạy loạn tha phương khắp nơi khắp chốn. Phải sau thời Đạt Ma sư tổ đến Trung Nguyên gần hai trăm năm, đạo Phật mới bắt đầu dần dần được triều đình chấp nhận chính thức, các nhà các phái, các chùa đạo Phật mới lần lượt có chính danh. Các đại sư bắt đầu công khai thu nhận đệ tử, giảng giải Phật pháp và đưa Phật giáo phát triển l·ên đ·ỉnh cao như là quốc giáo của nhà Đường. Ấy vậy mà cũng chính trong đời Đường, Phật gia cũng không tránh khỏi họa diệt vong trong năm năm Hội Xương pháp nạn.

Hãy luôn truy cập tên miền TruyenMoi.me để được chuyển hướng tới tên miền mới nhất kể cả khi bị chặn.